Điều trị sớm bệnh ho gà bằng kháng sinh rất quan trọng. Điều trị có thể khiến nhiễm trùng ít nghiêm trọng hơn nếu nó được bắt đầu sớm, trước khi những cơn ho xuất hiện. Hơn nữa, sử dụng kháng sinh để điều trị và dự phòng kháng sinh sau phơi nhiễm có thể ngăn chặn sự lây lan của bệnh. Tuy nhiên, CDC chỉ ủng hộ việc sử dụng kháng sinh sau phơi nhiễm theo mục tiêu cho những người có nguy cơ cao xuất hiện bệnh ho gà nặng và cho những người sẽ có tiếp xúc gần với những người có nguy cơ cao xuất hiện bệnh ho gà nặng.
Thời điểm và lựa chọn kháng sinh
Điều trị sớm bệnh ho gà rất quan trọng. Càng được điều trị sớm, nhất là đối với trẻ sơ sinh, thì càng tốt. Nếu điều trị ho gà được bắt đầu sớm trong quá trình bệnh, trong 1 – 2 tuần đầu tiên trước khi các cơn ho xuất hiện, thì triệu chứng có thể giảm bớt. Các bác sĩ rất nên xem xét việc điều trị trước khi có kết quả xét nghiệm nếu bệnh sử có những gợi ý mạnh/rõ ràng hoặc bệnh nhân có nguy cơ bệnh ho gà nặng hoặc biến chứng nặng do ho gà (ví dụ: trẻ sơ sinh). Nếu bệnh nhân được chẩn đoán muộn, thuốc kháng sinh sẽ không làm thay đổi quá trình bệnh và, thậm chí không có kháng sinh, bệnh nhân không còn lây lan bệnh ho gà.
Người bị bệnh ho gà dễ lây nhiễm từ khi bắt đầu giai đoạn viêm (chảy nước mũi, hắt hơi, sốt nhẹ, các triệu chứng giống cảm lạnh thông thường) hoặc cho tới 5 ngày sau khi bắt đầu điều trị kháng sinh có hiệu quả.
Hướng dẫn phù hợp là điều trị trẻ em trên 1 tuổi trong vòng 3 tuần khởi phát ho và trẻ em < 1 tuổi và phụ nữ có thai (đặc biệt khi gần đủ tháng) trong vòng 6 tuần khởi phát ho. Các loại thuốc kháng sinh được khuyến cáo cho điều trị hoặc dự phòng bệnh ho gà là azithromycin, clarithromycin và erythromycin. Trimethoprim-sulfamethoxasole (biseptol) cũng có thể được sử dụng. Việc lựa chọn thuốc kháng sinh nên được thực hiện sau khi cân nhắc:
– Khả năng gây ra các tác dụng phụ và tương tác thuốc
– Khả năng dung nạp
– Dễ tuân thủ theo phác đồ điều trị được chỉ định
– Chi phí
Ngày 12 tháng 3 năm 2013, Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã đưa ra một cảnh báo rằng azithromycin có thể gây ra sự thay đổi bất thường trong hoạt động điện thế của tim mà nó có thể dẫn tới các rối loạn nhịp tim có khả năng gây tử vong ở một số bệnh nhân. Azithromycin vẫn là một trong những loại thuốc kháng sinh được khuyến cáo để điều trị và dự phòng bệnh ho gà, nhưng cân nhắc sử dụng các loại thuốc thay thế khác nếu bệnh nhân có sẵn các bệnh lý tim mạch, bao gồm:
– Bệnh nhân có khoảng QT kéo dài, trong tiền sử xoắn đỉnh (torsades de pointes), hội chứng QT dài bẩm sinh, rối loạn nhịp tim chậm, hoặc suy tim mất bù.
– Bệnh nhân đang dùng thuốc làm kéo dài khoảng QT
– Bệnh nhân đang ở trong tình trạng có khả năng gây rối loạn nhịp tim chẳng hạn như hạ kali máu hoặc hạ magiê máu chưa được điều chỉnh, nhịp tim chậm có biểu hiện lâm sàng, và ở những bệnh nhân đang dùng thuốc chống rối loạn nhịp tim (Class IA: quinidine, procainamide; hoặc Class III: dofetilide, amiodarone, sotalol)
Bệnh nhân cao tuổi và bệnh nhân có bệnh lý tim mạch có thể nhậy cảm ơn đối với tác dụng của thuốc chống rối loạn nhịp tim trên khoảng QT.
Sử dụng liệu trình kháng sinh đối với những người có phơi nhiễm gần trong vòng 3 tuần phơi nhiễm, đặc biệt là ở những nơi có nguy cơ cao; liều lượng tương tự như phác đồ điều trị bệnh ho gà.
Trẻ sơ sinh
Erythromycin, clarithromycin, và azithromycine được ưa thích cho việc điều trị bệnh ho gà ở trẻ ≥ 1 tháng tuổi. Với trẻ sơ sinh < 1 tháng tuổi, azithromycine được ưa thích dành cho dự phòng sau phơi nhiễm và điều trị bởi vì azithromycin không liên quan với hẹp môn vị do phì đại ở trẻ (IHPS: infantile hypertrophic pyloric stenosis), trong khi erythromycin thì có liên quan. Với trẻ sơ sinh < 1 tháng tuổi, nguy cơ xuất hiện bệnh ho gà nặng và các biến chứng đe dọa tính mạng vượt quá nguy cơ có khả năng gây hẹp môn vị phì đại ở trẻ em mà nó liên quan với việc sử dụng kháng sinh macrolide. Trẻ sơ sinh < 1 tháng tuổi được điều trị bằng macrolide cần được theo sự xuất hiện dõi hẹp môn vị phì đại ở trẻ em và các tác dụng phụ nghiêm trọng khác của thuốc. Với trẻ ≥ 2 tháng tuổi, thuốc thay thế cho macrolide là trimethoprim-sulfamethoxazole.
Dự phòng kháng sinh sau phơi nhiễm
Mục tiêu chính của dự phòng kháng sinh sau phơi nhiễm là để ngăn ngừa tử vong và các biến chứng nặng do bệnh ho gà ở những người có nguy cơ gia tăng bệnh nặng.
Với tỷ lệ mắc gia tăng và sự lây lan rộng rãi trong cộng đồng của bệnh ho gà, việc theo dõi phơi nhiễm trên quy mô rộng và áp dụng rộng rãi dự phòng kháng sinh sau phơi nhiễm trong số những người có phơi nhiễm có thể không phải là biện pháp hiệu quả trong việc sử dụng nguồn nhân lực y tế công cộng hạn chế. Trong khi thuốc kháng sinh có thể dự phòng bệnh ho gà nếu được sử dụng trước khi khởi phát triệu chứng, thì không có dữ liệu nào chứng tỏ rằng áp dụng rộng rãi dự phòng kháng sinh sau phơi nhiễm cho những người có phơi nhiễm sẽ kiểm soát hoặc hạn chế được một cách có hiệu quả phạm vi của dịch bệnh ho gà.
Một vấn đề quan trọng khác là việc lạm dụng thuốc kháng sinh; Trung tâm Kiểm soát và Dự phòng Bệnh tật Hoa Kỳ (CDC) đã tham gia vào việc thúc đẩy một cách tích cực việc sử dụng đúng đắn thuốc kháng sinh cho nhân viên y tế và các bậc cha mẹ. Với những vấn đề này, CDC ủng hộ việc sử dụng kháng sinh sau phơi nhiễm theo mục tiêu cho những người có nguy cơ cao xuất hiện bệnh ho gà nặng và cho những người sẽ có tiếp xúc gần với những người có nguy cơ cao xuất hiện bệnh ho gà nặng. Để đối phó với số lượng ngày một tăng các trường hợp bệnh ho gà, rất nhiều cơ sở y tế của Hoa Kỳ đã tiếp cận cách tiếp cận tương tự.
Theo đó, CDC ủng hộ các trường hợp sau:
– Cung cấp dự phòng kháng sinh sau phơi nhiễm cho tất cả các thành viên phơi nhiễm trong gia đình của trường hợp mắc bệnh ho gà. Trong gia đình, tỷ lệ tấn công thứ phát đã được chứng minh là cao, ngay cả khi các thành viên phơi nhiễm trong gia đình đã có miễn dịch với ho gà. Sử dụng dự phòng kháng sinh cho thành viên phơi nhiễm trong gia đình không có triệu chứng trong vòng 21 ngày kể từ khi bệnh nhân khởi phát ho có thể dự phòng được nhiễm trùng có triệu chứng.
– Cung cấp dự phòng kháng sinh sau phơi nhiễm cho những người có phơi nhiễm trong vòng 21 ngày với những trường hợp ho gà ở giai đoạn dễ lây – những người có nguy cơ cao bị bệnh nặng hoặc những người sẽ có tiếp xúc gần với những người có nguy cơ cao bị bệnh nặng, chúng bao gồm:
+ Trẻ sơ sinh và phụ nữ đang có thai 3 tháng cuối – các biến chứng nặng và đôi khi gây tử vong liên quan tới bệnh ho gà có thể xuất hiện ở trẻ em < 12 tháng tuổi, đặc biệt ở trẻ em < 4 tháng tuổi. Phụ nữ đang có thai 3 tháng cuối có thể là nguồn lây bệnh ho gà cho trẻ mới sinh của họ.
+ Tất cả những người có vấn đề về sức khỏe từ trước (không giới hạn ở người suy giảm miễn dịch và bệnh nhân hen từ trung bình tới nặng đang được điều trị bằng thuốc) mà có thể bị trầm trọng hơn do nhiễm ho gà.
+ Những người phơi nhiễm mà bản thân họ có tiếp xúc gần với hoặc trẻ nhỏ dưới 12 tháng tuổi, hoặc phụ nữ có thai, hoặc những người có vấn đề về sức khỏe từ trước có nguy cơ mắc bệnh hoặc biến chứng nặng.
+ Tất cả những người phơi nhiễm ở trong hoàn cảnh có nguy cơ cao (không giới hạn ở các đơn vị hồi sức tích cực sơ sinh, môi trường chăm sóc trẻ em, và khoa sản) bao gồm trẻ em < 12 tháng tuổi hoặc phụ nữ đang có thai 3 tháng cuối.
– Việc áp dụng rộng rãi dự phòng kháng sinh sau phơi nhiễm trong những môi trường kín và hạn chế khi số lượng các trường hợp ho gà được xác định còn ít và dịch bệnh trong cộng đồng không liên tục; tuy nhiên, khi việc lây lan liên tục bệnh ho gà đã rõ ràng thì việc sử dụng nhiều đợt kháng sinh sẽ không được khuyến cáo. Thay vì lặp lại một liệu trình kháng sinh, người phơi nhiễm cần được theo dõi sự khởi phát các dấu hiệu và triệu chứng bệnh ho gà trong vòng 21 ngày.
ThS. BS. Lương Quốc Chính
Khoa Cấp cứu, Bệnh viện Bạch Mai
Nguồn tham khảo:
1. Pertussis | Whooping Cough | Clinical | Treatment | CDC
2. Pertussis | Outbreaks | PEP Postexposure Antimicrobial Prophylaxis | CDC