Giáo dục sức khỏe – Sức Khỏe https://yhocthuongthuc.net Chuyên trang kiến thức Y khoa Mon, 16 Nov 2020 11:51:03 +0000 vi hourly 1 162709760 Vai trò và nhu cầu lipit, protein, glucid của cơ thể https://yhocthuongthuc.net/content/722-VAI-TRO-VA-NHU-CAU-MOT-SO-CHAT-DINH-DUONG-.aspx?utm_source=rss&utm_medium=rss&utm_campaign=vai-tro-va-nhu-cau-mot-so-chat-dinh-duong https://yhocthuongthuc.net/content/722-VAI-TRO-VA-NHU-CAU-MOT-SO-CHAT-DINH-DUONG-.aspx#respond Mon, 26 Oct 2020 14:37:31 +0000 https://suckhoequangninh.org.vn/?p=597 Các hoạt động sống, quá trình sinh trưởng, tồn tại và phát triển của cơ thể đều cần năng lượng. Đơn vị đo năng lượng là Calo (Cal). Năng lượng này lấy từ đâu? Vai trò và nhu cầu lipit, protein, glucid của cơ thể như thế nào? Bài viết này, yhocthuongthuc.net sẽ cùng bạn tìm hiểu vai trò và nhu cầu của cơ thể đối với một số chất dinh dưỡng. Chúng sẽ rất có lợi cho việc kiểm soát tình trạng sức khỏe của bạn. Vì vậy, đùng bỏ lỡ! Năng lượng của cơ thể là gì? Năng

Bài viết Vai trò và nhu cầu lipit, protein, glucid của cơ thể đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Sức Khỏe.

]]>
Các hoạt động sống, quá trình sinh trưởng, tồn tại và phát triển của cơ thể đều cần năng lượng. Đơn vị đo năng lượng là Calo (Cal). Năng lượng này lấy từ đâu? Vai trò và nhu cầu lipit, protein, glucid của cơ thể như thế nào?

Bài viết này, yhocthuongthuc.net sẽ cùng bạn tìm hiểu vai trò và nhu cầu của cơ thể đối với một số chất dinh dưỡng. Chúng sẽ rất có lợi cho việc kiểm soát tình trạng sức khỏe của bạn. Vì vậy, đùng bỏ lỡ!

Năng lượng của cơ thể là gì?

Năng lượng tiêu hao hàng ngày của cơ thể bao gồm năng lượng cho chuyển hoá cơ bản và năng lượng cho các hoạt động.

Chuyển hoá cơ bản là năng lượng cơ thể cần khi không tiêu hoá, không vận cơ, không điều nhiệt. Đó là nhiệt lượng cần thiết để duy trì các chức phận sống của cơ thể như: tuần hoàn, hô hấp, bài tiết, thân nhiệt.

Vai trò và nhu cầu lipit, protein, glucid

Năng lượng cho hoạt động là năng lượng cần thiết cho mọi hoạt động có ý thức của cơ thể. Hoạt động càng nặng thì mức tiêu hao năng lượng càng cao. Dựa vào cường độ lao động, người ta phân các loại lao động thành các nhóm sau:

Lao động nhẹ: Nhân viên hành chính, lao động trí óc, nội trợ, giáo viên.

Lao động trung bình: Công nhân xây dựng, nông dân, quân nhân, sinh viên.

Lao động nặng: Một số nghề công nghiệp nặng, nghề mỏ, vận động viên thể thao, quân nhân thời kỳ luyện tập.

Lao động rất nặng: Nghề rừng, nghề rèn, hầm mỏ.

Nếu năng lượng cung cấp vượt quá nhu cầu kéo dài sẽ dẫn đến tình trạng thừa cân và béo phì. Nếu năng lượng cung cấp không đủ. Lại dẫn đến biểu hiện thiếu năng lượng trường diễn ở người lớn và thiếu dinh dưỡng protein năng lượng ở trẻ em.

Các chất dinh dưỡng cơ bản cần cho cơ thể

Carbohydrate, protein và chất béo cung cấp 90% trọng lượng khô của khẩu phần và 100% năng lượng của nó. Cả ba đều cung cấp năng lượng, nhưng lượng năng lượng trong 1 gam khác nhau:

  • 4 calo trong một gam carbohydrate hoặc protein
  • 9 calo trong một gam chất béo

Các chất dinh dưỡng này cũng khác nhau về tốc độ cung cấp năng lượng. Carbohydrate là nhanh nhất, và chất béo là chậm nhất.

Carbohydrate, protein và chất béo được tiêu hóa trong ruột, nơi chúng được chia thành các đơn vị cơ bản:

  • Carbohydrate thành đường
  • Protein thành axit amin
  • Chất béo thành axit béo và glycerol

Cơ thể sử dụng các chất này để xây dựng các chất cần thiết cho sự tăng trưởng, duy trì và hoạt động. Bao gồm các loại carbohydrate, protein và chất béo khác.

Vai trò và nhu cầu protein (chất đạm) của cơ thể

Vai trò của Protein

Tạo hình

Vai trò quan trọng nhất của protein là xây dựng và tái tạo tất cả các mô của cơ thể.

Điều hoà hoạt động của cơ thể

Protein là thành phần quan trọng cấu thành nên các hormon và các enzym. Đây là những chất tham gia vào mọi hoạt động điều hoà chuyển hoá và tiêu hoá. Protein tham gia duy trì cân bằng dịch thể trong cơ thể, sản xuất kháng thể và tạo cảm giác ngon miệng.

Cung cấp năng lượng

Protein còn là nguồn năng lượng cho cơ thể. Khi nguồn cung cấp năng lượng từ glucid và lipid là không đủ.

Protein thường không được sử dụng để làm năng lượng. Tuy nhiên, nếu cơ thể không nhận đủ calo từ các chất dinh dưỡng khác hoặc từ chất béo dự trữ trong cơ thể. Protein sẽ được sử dụng để tạo năng lượng. 

Nếu tiêu thụ nhiều protein hơn mức cần thiết, cơ thể sẽ phân hủy protein và lưu trữ các thành phần của nó dưới dạng chất béo.

Nhu cầu protein

Nhu cầu protein thay đổi

Nhu cầu protein thay đổi tuỳ thuộc vào lứa tuổi, trọng lượng, giới, những biểu hiện sinh lý như có thai, cho con bú, hoặc bệnh lý. Với hầu hết các đối tượng, lượng protein tối thiểu khuyến nghị là 1g/kg cân nặng/ngày.

Người lớn cần ăn khoảng 60 gam protein mỗi ngày (0,8 gam cho mỗi kg cân nặng hoặc 10 đến 15% tổng lượng calo). Người lớn đang cố gắng xây dựng cơ bắp cần nhiều hơn một chút. 

Trẻ em cũng cần nhiều hơn vì chúng đang lớn. Những người đang hạn chế calo để giảm cân thường cần một lượng protein cao hơn để ngăn ngừa mất cơ trong khi họ đang giảm cân.

Nếu thiếu hoặc thừa protein?

Protein của sữa và trứng được coi là chuẩn, là cân đối về các acid amin cần thiết và hấp thu tốt nhất.

Nếu protein trong khẩu phần thiếu trường diễn cơ thể sẽ gầy, ngừng lớn, chậm phát triển thể lực và tinh thần, rối loạn chức phận nhiều tuyến nội tiết như: Giáp trạng, sinh dục…, giảm khả năng miễn dịch của cơ thể và làm cơ thể dễ mắc các bệnh nhiễm trùng.

Nếu cung cấp protein vượt quá nhu cầu, protein sẽ được chuyển thành lipid và dự trữ ở mô mỡ của cơ thể. Sẽ dẫn tới bệnh thừa cân, béo phì, bệnh tim mạch, bệnh Gút, ung thư đại tràng và tăng đào thải calci…

Vai trò và nhu cầu lipit (chất béo) của cơ thể

Vai trò dinh dưỡng của lipid

Cung cấp năng lượng

Lipit cung cấp năng lượng cần thiết cho quá trình lao động. Đối với những người lao động nặng nhọc, thức ăn giàu lipit là yếu tố không thể thiếu trong thực đơn để có thể làm việc tốt nhất.

Chúng cần thiết cho thời kỳ phục hồi dinh dưỡng đối với người ốm, phụ nữ có thai, cho con bú và trẻ nhỏ.

Tạo hình

Chất béo là cấu trúc quan trọng của tế bào và của các mô trong cơ thể. Nó tồn tại trong cơ thể dưới dạng mô mỡ tại các vị trí như: dưới da, bao bọc xung quanh phủ tạng….

Với chức năng cực kì quan trọng trong đệm, nâng đỡ, bảo vệ, chúng giúp các cơ quan này tránh khỏi những tác động không tốt từ bên ngoài như tác động cơ học, ảnh hưởng từ nhiệt độ thay đổi…

Điều hoà hoạt động của cơ thể

Chất béo trong thức ăn cần thiết cho sự tiêu hoá và hấp thu của những vitamin tan trong dầu như vitamin A, D, E, K. Acid béo là thành phần của acid mật và muối mật, rất cần cho quá trình tiêu hoá và hấp thu các chất dinh dưỡng ở ruột.

Chúng tham gia vào thành phần của một số loại hormon loại steroid. Và rất cần hoạt động bình thường của hệ nội tiết và sinh dục.

Nhu cầu lipid

Năng lượng do lipid cung cấp hàng ngày cần chiếm khoảng 25% nhu cầu năng lượng của cơ thể.

Các nhà chức trách thường khuyến cáo rằng

  • Chất béo nên được giới hạn dưới khoảng 28% tổng lượng calo hàng ngày (hoặc ít hơn 90 gam mỗi ngày).
  • Chất béo bão hòa nên được giới hạn dưới 8%.

Nên loại bỏ chất béo chuyển hóa trong khẩu phần ăn. Khi có thể, chất béo không bão hòa đơn và chất béo không bão hòa đa, đặc biệt là chất béo omega-3. Nên được thay thế cho chất béo bão hòa và chất béo chuyển hóa.

Những người có mức cholesterol cao có thể cần giảm tổng lượng chất béo của họ nhiều hơn nữa.

Nếu thiếu hoặc thừa lipit?

Trẻ em thiếu lipid đặc biệt là các acid béo chưa no cần thiết có thể còn bị chậm phát triển chiều cao và cân nặng.

Chế độ ăn có quá nhiều lipid có thể dẫn tới thừa cân, béo phì, bệnh tim mạch, và một số loại ung thư như ung thư đại tràng, vú, tử cung và tiền liệt tuyến.

Vai trò và nhu cầu glucid (đường) của cơ thể

Vai trò dinh dưỡng của glucid

Vai trò và nhu cầu lipit, protein, glucid

Cung cấp năng lượng

Là chức năng quan trọng nhất của glucid. Trong cơ thể, glucid được dự trữ ở gan dưới dạng glycogen. Chế độ ăn có đủ glucid sẽ giúp cơ thể giảm phân huỷ và tập trung protein cho chức năng tạo hình.

Tạo hình

Glucid tham gia cấu tạo nên tế bào và các mô của cơ thể.

Điều hoà hoạt động của cơ thể

Glucid tham gia chuyển hoá lipid. Glucid giúp cơ thể chuyển hoá thể Cetonic. Chất này có tính chất acid, do đó giúp cơ thể giữ được hằng định nội môi.

Cung cấp chất xơ

Chất xơ làm khối thức ăn lớn hơn. Do đó tạo cảm giác no, tránh được việc ăn quá nhiềus. Chất xơ còn hấp phụ những chất có hại trong ống tiêu hoá ví dụ cholesterol, các chất gây ô xy hoá, chất gây ung thư…

Nhu cầu glucid

Năng lượng do glucid cung cấp hàng ngày cần chiếm từ 65% nhu cầu năng lượng ăn vào.

Chỉ số đường huyết của thực phẩm được sử dụng như một hướng dẫn chung cho các lựa chọn thực phẩm. Chỉ số này thể hiện mức độ tiêu thụ của thực phẩm làm tăng lượng đường trong máu nhanh như thế nào

Chỉ số đường huyết được cho là quan trọng. Vì carbohydrate làm tăng nhanh lượng đường trong máu, cũng nhanh chóng làm tăng lượng insulin. 

Sự gia tăng insulin có thể dẫn đến lượng đường trong máu thấp và cảm giác đói. Có xu hướng dẫn đến tiêu thụ calo dư thừa và tăng cân. Ví dụ, carbohydrate có chỉ số đường huyết thấp không làm tăng lượng insulin quá nhiều. 

Kết quả là mọi người cảm thấy no lâu hơn sau khi ăn. Tiêu thụ carbohydrate có chỉ số đường huyết thấp cũng làm tăng mức cholesterol có lợi cho sức khỏe. Và giảm nguy cơ béo phì và đái tháo đường. Đồng thời, giúp nguy cơ biến chứng do bệnh tiểu đường.

Chỉ số đường huyết một số thực phẩm

Mặc dù có mối liên hệ giữa thực phẩm có chỉ số đường huyết thấp và sức khỏe được cải thiện. Nhưng việc sử dụng chỉ số này để chọn thực phẩm không tự động dẫn đến một chế độ ăn uống lành mạnh. 

Ví dụ, chỉ số đường huyết của khoai tây chiên và một số thanh kẹo. Đây không phải là lựa chọn có lợi cho sức khỏe. Nhưng chúng thấp hơn chỉ số của một số thực phẩm có lợi cho sức khỏe, chẳng hạn như gạo lứt

Vai trò và nhu cầu lipit, protein, glucid

Một số thực phẩm có chỉ số đường huyết cao chứa nhiều vitamin và khoáng chất có giá trị.

Một số như cà rốt, chuối, dưa hấu hoặc bánh mì nguyên cám. Chúng có thể có chỉ số đường huyết cao nhưng chứa tương đối ít carbohydrate. Và do đó có lượng đường huyết thấp. Những thực phẩm như vậy ít ảnh hưởng đến lượng đường trong máu.

Vì vậy, chỉ số này chỉ nên được sử dụng như một hướng dẫn chung cho các lựa chọn thực phẩm.

Nếu thiếu hoặc thừa glucid?

Nếu khẩu phần thiếu glucid, người ta có thể bị sút cân và mệt mỏi. Thiếu nhiều sẽ có thể dẫn tới hạ đường huyết, toan hoá máu do tăng thể cetonic trong máu.

Với lượng quá thừa trong khẩu phần ăn, nó sẽ được dữ trữ tại gan dưới dạng mỡ. Từ đó gây nên tình trạng thừa cân, béo phì và các bệnh chuyển hóa khác.

Kết luận

Vai trò và nhu cầu lipit, protein, glucid của cơ thể là khác nhau. Để đảm bảo cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng, bạn nên nắm bắt được nhu cầu cơ thể cần.

Qúa nhiều hoặc quá ít sẽ gây ra những trạng thái bất ổn cho sức khỏe. Vì vậy, hãy cân nhắc thật kĩ khi lựa chọn thực phẩm cho mình và gia đình.

Chúc bạn sức khỏe!

Theo: Thiện Huy

Bài viết Vai trò và nhu cầu lipit, protein, glucid của cơ thể đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Sức Khỏe.

]]>
https://yhocthuongthuc.net/content/722-VAI-TRO-VA-NHU-CAU-MOT-SO-CHAT-DINH-DUONG-.aspx/feed 0 597
Bệnh hạt cơm và cách phòng tránh https://yhocthuongthuc.net/content/3751-Benh-hat-com-va-cach-phong-tranh-.aspx?utm_source=rss&utm_medium=rss&utm_campaign=benh-hat-com-va-cach-phong-tranh https://yhocthuongthuc.net/content/3751-Benh-hat-com-va-cach-phong-tranh-.aspx#respond Fri, 30 Sep 2016 07:37:16 +0000 https://suckhoequangninh.org.vn/?p=582 Bệnh hạt cơm hay còn gọi là mụn cơm, mụn cóc là một bệnh ngoài da tuy không nguy hiểm đến tính mạng nhưng lại ảnh hưởng đến sinh hoạt hàng ngày của người mắc và có khả năng lây bệnh cao. Bệnh hạt cơm do vi rút gây u nhú ở người có tên Papovavirus thuộc nhóm HPV gây ra. HPV có khoảng trên 100 tuýp, mỗi tuýp gây bệnh liên quan tới mỗi vùng da, tổ chức riêng biệt. Bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi, mọi giới nhưng thường gặp nhiều hơn ở người trẻ tuổi,

Bài viết Bệnh hạt cơm và cách phòng tránh đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Sức Khỏe.

]]>
Bệnh hạt cơm hay còn gọi là mụn cơm, mụn cóc là một bệnh ngoài da tuy không nguy hiểm đến tính mạng nhưng lại ảnh hưởng đến sinh hoạt hàng ngày của người mắc và có khả năng lây bệnh cao.

Bệnh hạt cơm do vi rút gây u nhú ở người có tên Papovavirus thuộc nhóm HPV gây ra. HPV có khoảng trên 100 tuýp, mỗi tuýp gây bệnh liên quan tới mỗi vùng da, tổ chức riêng biệt. Bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi, mọi giới nhưng thường gặp nhiều hơn ở người trẻ tuổi, người già hiếm gặp hơn và ít gặp hơn nữa là trẻ sơ sinh.

Hạt cơm có thể mọc ở bất kỳ vị trí nào trên da, niêm mạc, cơ quan sinh dục, vùng hậu môn… và gồm các dạng chính là  hạt cơm thông thường, hạt cơm lòng bàn chân, bàn tay, hạt cơm phẳng, hạt cơm hậu môn, sinh dục. Về cách nhận biết các dạng hạt cơm, thạc sĩ bác sĩ Hoàng Quỳnh Hoa  – Trưởng khoa Da liễu Bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Ninh cho biết:

Hạt cơm thông thường: Do HPV tuýp 2,4,27 và 29 gây nên. Thương tổn lúc đầu là sẩn nhỏ, giống màu da, bề mặt sần sùi thô ráp, cứng, chắc, nhô cao hơn bề mặt da. Vị trí khu trú của hạt cơm ở bất kì vị trí nào trên da, hay gặp nhất là ở mu bàn tay, bàn chân, ngón tay và ngón chân. Hạt cơm không gây đau, trừ khi ta bóp vào hoặc ấn mạnh vào hạt cơm.

Hạt cơm lòng bàn chân: Chủ yếu do HPV tuýp 1 gây nên, có một vài tuýp khác gây bệnh nhưng ít gặp hơn. Thương tổn lúc đầu là u hoặc sẩn sừng đường kính 2mm đến 10mm, không nhô cao khỏi mặt da, màu xám , khô nhám. Trên có những gai nhỏ, xung quanh có viền dày sừng màu vàng trong. Vị trí thường gặp là ở vùng chịu áp lực của lòng bàn chân, đa phần  ở một phần ba trước lòng bàn chân. Hầu hết hạt cơm lòng bàn chân đều gây đau mỗi khi đi lại hoặc bóp vào 2 bên thương tổn.

Hạt cơm phẳng: Do HPV tuýp 3, 10, 28 và 49 gây nên. Thương tổn là những sẩn dẹt, phẳng hơi gờ nhẹ trên mặt da, ít sần sùi, kích thước nhỏ 1mm đến 5mm, hình tròn hoặc đa giác, màu như màu da hoặc hơi vàng xám, ranh giới rõ, hay lan theo vết gãi tạo nên những sẩn xắp xếp thành đường thắng gọi là dấu hiệu Koebner. Vị trí thường gặp ở mặt, mu tay, cẳng tay, cẳng chân và phần trên của ngực.

Hạt cơm hậu môn, sinh dục còn gọi là sùi mào gà: Thường do HPV tuýp 6 và 11 gây nên. Ngoài ra còn một số tuýp khác như 16, 18, 42, 44, 54…. Đây là nhóm bệnh được xếp vào nhóm các bệnh lây truyền qua đường tình dục. Thương tổn là các sẩn nổi cao, trên có các nhú mềm màu hồng tươi giống như các tinh thể nhô lên, xòe rộng ra giống mào con gà hay giống súp lơ, không ngứa, không đau. Vị trí hay gặp là da và niêm mạc vùng sinh dục, hậu môn; ít gặp hơn là niêm mạc miệng, họng.

Bệnh hạt cơm rất dễ lây lan. Bệnh có thể lây trực tiếp khi tiếp xúc với da qua những tổn thương nhỏ trầy xước hoặc cào, gãi dễ tạo điều kiện do vi rút xâm nhập. Hoặc lây nhiễm vi rút có thể gián tiếp qua các vật dụng bị nhiễm vi rút như dụng cụ cầm tay, đi chung giày dép, dùng chung đồ sinh hoạt, hồ bơi, nhà tắm công cộng.

Nếu bệnh nhân gãi hoặc chà xát sẽ tạo thành vệt lan theo đường gãi, gây nhiễm trùng da. Với các bệnh nhân nữ có thói quen cạo lông chân, có thể làm lây lan các mụn dày đặc…Những người bị suy giảm miễn dịch như bị bệnh AIDS, ghép tạng…dễ bị hạt cơm nhiều và lan rộng hơn.

Bệnh hạt cơm tuy không ảnh hưởng đến tính mạng nhưng nếu không điều trị sớm, để lâu hạt cơm sẽ mọc nhiều, lan rộng. Khi mắc bệnh hạt cơm, nhiều người đã tự ý chữa bệnh tại nhà bằng các phương pháp dân gian, thạc sĩ bác sĩ Hoàng Quỳnh Hoa khuyến cáo: “Có một số phương pháp dân gian được áp dụng để điều trị bệnh hạt cơm như: Dùng lá tía tô; tỏi; vỏ chuối; đu đủ xanh; cây lô hội hoặc tinh chất trà xanh. Tuy nhiên, áp dụng biện pháp dân gian điều trị hạt cơm cần thực hiện một cách kiên trì, đều đặn sẽ cho kết quả tốt. Tuy nhiên, việc áp dụng những biện pháp trên chỉ phù hợp với những hạt cơm, mụn cóc ở vị trí dễ xử lý và khi phát hiện bệnh ở giai đoạn đầu. Những trường hợp hạt cơm ở vị trí nhạy cảm, bệnh nhân không được tự ý điều trị bằng phương pháp này mà nên đến các bệnh viện chuyên khoa da liễu để điều trị một cách khoa học, tránh xảy ra những biến chứng đáng tiếc”.

Hiện nay, để điều trị bệnh hạt cơm, các bác sĩ thường dùng phương pháp phá hủy gốc hạt cơm, thạc sĩ bác sĩ Hoa cho biết thêm: “Hiện nay có rất nhiều các phương pháp điều trị khác nhau. Nhưng một số phương pháp hay dùng là thuốc bôi tại chỗ: A xít Salycylic 15-40%: dung dịch Duofilm; A xít Trichloracetic: dung dịch a xít Trichloracetic 33%; Podophyllin 25%; Kem Imiquimod 5%; Kem Tretinoin : Locacid 0,05-0,1%. Các thủ thuật khác: Đốt điện; Đốt bằng Laser CO2; Liệu pháp lạnh là phương pháp áp Nitơ lỏng lạnh – 1960C vào hạt cơm”.

Để phòng tránh bệnh hạt cơm, các chuyên gia khuyến cáo mọi người cần phải tránh tiếp xúc, không nên cào hay gây tổn thương hạt cơm đã xuất hiện. Những hạt cơm ở vùng hậu môn sinh dục có thể gây lây nhiễm bệnh qua đường tình dục, vì thế phải dùng bao cao su khi quan hệ để tránh nguy cơ lây bệnh. Bên cạnh đó phải vệ sinh cá nhân thật sạch sẽ, ăn uống phải đảm bảo vệ sinh, đầy đủ các chất dinh dưỡng. Khi trên da xuất hiện hạt cơm, không được tự ý cào, tẩy, bóc dễ làm tổn thương và nhiễm khuẩn. Nếu đã bị hạt cơm, tốt nhất cần tới bác sỹ da liễu để khám và điều trị càng sớm càng tốt. 

Hải Ninh – TT Truyền thông GDSK

Bài viết Bệnh hạt cơm và cách phòng tránh đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Sức Khỏe.

]]>
https://yhocthuongthuc.net/content/3751-Benh-hat-com-va-cach-phong-tranh-.aspx/feed 0 582
Không chủ quan với bệnh thiên đầu thống https://yhocthuongthuc.net/content/3723-Khong-chu-quan-voi-benh-thien-dau-thong-.aspx?utm_source=rss&utm_medium=rss&utm_campaign=khong-chu-quan-voi-benh-thien-dau-thong https://yhocthuongthuc.net/content/3723-Khong-chu-quan-voi-benh-thien-dau-thong-.aspx#respond Thu, 09 Jun 2016 07:54:55 +0000 https://suckhoequangninh.org.vn/?p=594 Bệnh glôcôm thường được người dân gọi là bệnh thiên đầu thống, đây là một trong những bệnh về mắt rất nguy hiểm. Nếu người mắc bệnh thiên đầu thống không được phát hiện và cấp cứu ban đầu kịp thời thì sau 2 đến 3 ngày có thể mù mắt vĩnh viễn. Hiện nay, bệnh đang có chiều hướng gia tăng nhưng người dân vẫn mơ hồ về căn bệnh này. Để hiểu rõ hơn về bệnh thiên đầu thống, phóng viên Trung tâm Truyền thông Giáo dục sức khỏe đã có cuộc trao đổi với bác sĩ chuyên

Bài viết Không chủ quan với bệnh thiên đầu thống đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Sức Khỏe.

]]>
Bệnh glôcôm thường được người dân gọi là bệnh thiên đầu thống, đây là một trong những bệnh về mắt rất nguy hiểm. Nếu người mắc bệnh thiên đầu thống không được phát hiện và cấp cứu ban đầu kịp thời thì sau 2 đến 3 ngày có thể mù mắt vĩnh viễn.

Hiện nay, bệnh đang có chiều hướng gia tăng nhưng người dân vẫn mơ hồ về căn bệnh này. Để hiểu rõ hơn về bệnh thiên đầu thống, phóng viên Trung tâm Truyền thông Giáo dục sức khỏe đã có cuộc trao đổi với bác sĩ chuyên khoa II Nguyễn Văn Lân, Phó giám đốc Trung tâm phòng chống bệnh xã hội tỉnh Quảng Ninh.

Phóng viên: Xin bác sĩ cho biết bệnh thiên đầu thống là gì và mức độ nguy hiểm của bệnh như thế nào?

Bs Nguyễn Văn Lân: Bệnh thiên đầu thống là bệnh tăng nhãn áp của nhãn cầu còn gọi là bệnh glôcôm. Giai đoạn toàn phát biểu hiện các triệu chứng: Nhãn áp cao trên 25mmHg, tầm nhìn thu hẹp, lõm đĩa thần kinh thị giác. Đây là bệnh đứng thứ 2 trong các nguyên nhân gây mù sau bệnh đục thể thủy tinh.

Bệnh nguy hiểm vì không có một loại thuốc hoặc phẫu thuật nào có thể làm phục hồi những tổn thương do bệnh gây ra và dẫn đến mất thị lực vĩnh viễn không hồi phục.

Phóng viênNguyên nhân nào dẫn đến bệnh thiên đầu thống, thưa bác sĩ?

Bs Nguyễn Văn Lân:Những yếu tố nguy cơ dễ mắc bệnh như: Bệnh thường xảy ra chủ yếu ở phụ nữ. Phụ nữ có nguy cơ mắc phải bệnh này nhiều hơn gấp hai lần so với nam giới và chủ yếu ở độ tuổi trung niên.

Những người có nhãn cầu nhỏ như bị viễn thị nặng, giác mạc nhỏ, dễ xúc cảm, hay lo âu là cơ địa thuận lợi để xuất hiện cơn glôcôm.

Hiện tượng đau đầu, thường đau 1 bên đầu hay còn gọi là đau nửa đầu, mức độ đau đầu nghiêm trọng, thường có thể dẫn tới nôn mửa. Mức độ đau đầu thường không xảy ra liên tục, có thể xảy ra 1 đến 2 lần/1 tháng, có người thì xảy ra 3 hoặc 4 lần/năm và tùy theo mỗi người.

Ngoài ra, một số người có thể có nguy cơ mắc thiên đầu thống cao hơn mọi người bình thường, đó là những người đang mắc bệnh tiểu đường, huyết áp cao, huyết áp thấp, đục thủy tinh thể, các bệnh chấn thường về mắt…. những bệnh này đều có thể có biến chứng trở thành thiên đầu thống.

Phóng viênNhững biểu hiện sớm của bệnh thiên đầu thống và cách xử trí ban đầu tại cộng đồng như thế nào, thưa bác sĩ?

Bs Nguyễn Văn Lân:

Dấu hiệu nhận biết sớm bệnh thiên đầu thống:

Đau nhức mắt, lan nửa đầu cùng bên.

Đau đầu âm ỉ, nhức nhối.

Thị giác kém, tầm nhìn bị thu hẹp, nhức mắt, chảy nước mắt.

Buồn nôn, chán ăn.

Sợ ánh sáng, sợ tiếng động.

Tính khí thay đổi.

Xử trí ở cộng đồng: Bệnh thiên đầu thống là một cấp cứu nhãn khoa. Người bệnh được điều trị ngay sau khi chẩn đoán bệnh bằng thuốc tra mắt và uống thuốc hạ nhãn áp. Hiện nay, trên thị trường Việt Nam có nhiều thuốc hạ nhãn áp với những cơ chế tác động khác nhau: pilocarpin 1%, 2%, Timolol 0,25%, 0,5%, betoptic S, alphagan P, travatan 0,004%, lumigan, azopt, acetazolamid 250mg, glyxerol, manitol… Các thuốc này phải được sử dụng theo chỉ định, dưới sự theo dõi chặt chẽ của bác sĩ nhãn khoa.

Phóng viên:Việc phát hiện và xử trí ban đầu đúng cách có hiệu quả như thế nào trong điều trị bệnh thiên đầu thống, thưa bác sĩ?

Bs Nguyễn Văn Lân:

Điều trị đúng và kịp thời giúp làm bình ổn nhãn áp không gây tổn thương thần kinh thị giác.

Bác sỹ nhãn khoa sẽ căn cứ vào hình thái của bệnh để điều trị bằng phẫu thuật hoặc nội khoa một cách thích hợp.

Bệnh  thiên đầu thống không thể chữa khỏi hoàn toàn. Mục đích điều trị thiên đầu thống là nhằm ngăn chặn bệnh không tiếp tục gây tổn thương đầu dây thần kinh thị giác gây mù lòa vĩnh viễn.

Phóng viênĐể chủ động phòng bệnh thiên đầu thống, bác sĩ có khuyến cáo gì cho người dân

Bs Nguyễn Văn Lân:

Người đã biết mình bị thiên đầu thống nên theo dõi đều đặn nhãn áp 3-4 tháng/lần suốt đời, có sẵn thuốc uống, tra ngừa cơn cấp do thầy thuốc chỉ định.

Khi có tiền sử gia đình bị thiên đầu thống thì mọi người trong gia đình cần khám chuyên khoa mắt để phát hiện bệnh thiên đầu thống từ khi chưa có những biểu hiện đầu tiên.

Với những người bị tăng huyết áp, thì khi huyết áp tụt đột ngột có thể tạo cơ hội thuận lợi để bùng phát cơn thiên đầu thống.

Người chưa biết mình có thiên đầu thống nên căn cứ vào các dấu hiệu đau nhức mắt, nhìn mờ dần, có những đợt, những lúc nhìn đèn thấy quầng xanh đỏ thì nên đến khoa mắt để đo nhãn áp và làm các xét nghiệm phát hiện bệnh.

Bệnh thiên đầu thống có thể biểu hiện với các triệu chứng rầm rộ nhưng lại cũng có thể chỉ là những triệu chứng âm thầm, không gây chú ý. Vì vậy, nếu ở tuổi trên 35, khi thấy có các dấu hiệu nghi ngờ như nhức mỏi, nhìn mờ thì nên đi khám mắt ngay để được đo nhãn áp.

Người trên 40 tuổi, tuy không có dấu hiệu gì, cũng nên đo nhãn áp định kỳ 3 – 6 tháng một lần để xem nhãn áp có cao không, nhất là với những người có khả năng mắc bệnh cao như đã nêu ở trên.

Phóng viênXin cảm ơn bác sĩ đã chia sẻ những thông tin rất bổ ích!

Hải Ninh –TT Truyền thông GDSK

Bài viết Không chủ quan với bệnh thiên đầu thống đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Sức Khỏe.

]]>
https://yhocthuongthuc.net/content/3723-Khong-chu-quan-voi-benh-thien-dau-thong-.aspx/feed 0 594
Bệnh cúm A (H1N1) https://yhocthuongthuc.net/content/3156-Benh-cum-A-H1N1-.aspx?utm_source=rss&utm_medium=rss&utm_campaign=benh-cum-a-h1n1 https://yhocthuongthuc.net/content/3156-Benh-cum-A-H1N1-.aspx#respond Wed, 17 Feb 2016 08:03:21 +0000 https://suckhoequangninh.org.vn/?p=600 Bệnh cúm A(H1N1) là bệnh truyền nhiễm nguy hiểm do vi rút cúm A(H1N1) mới gây ra. Vi rút mới này có các vật liệu di truyền do sự cộng hợp gen của của 3 loại vi rút cúm: Một phần của virus cúm lợn, một phần của virus vi rút cúm gia cầm và một phần của virus vi rút cúm mùa, chứ không phải là hiện tượng đột biến gen. Đây là bệnh nhiễm trùng đ­ường hô hấp cấp tính do vi rút cúm gây nên. Bệnh có khả năng lây nhiễm rất cao và lây lan rộng

Bài viết Bệnh cúm A (H1N1) đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Sức Khỏe.

]]>
Bệnh cúm A(H1N1) là bệnh truyền nhiễm nguy hiểm do vi rút cúm A(H1N1) mới gây ra. Vi rút mới này có các vật liệu di truyền do sự cộng hợp gen của của 3 loại vi rút cúm: Một phần của virus cúm lợn, một phần của virus vi rút cúm gia cầm và một phần của virus vi rút cúm mùa, chứ không phải là hiện tượng đột biến gen.

Đây là bệnh nhiễm trùng đ­ường hô hấp cấp tính do vi rút cúm gây nên. Bệnh có khả năng lây nhiễm rất cao và lây lan rộng và nhanh trong cộng đồng.

Phương thức lây truyền:

Vi rút cúm A(H1N1) có khả năng lây từ động vật sang người, từ người sang người và ngược lại. Đường lây truyền chủ yếu là qua các giọt nước bọt hay dịch tiết mũi họng có kích thước nhỏ khoảng 5 micrômét bắn ra khi chúng ta nói chuyện, hắt hơi, ho. Những giọt nước bọt hay dịch tiết mũi, họng bắn ra sau khi phát tán ra môi trường lại rơi xuống các bề mặt, dụng cụ, sàn nhà. Bàn  tay chúng  ta xờ mó  vào  các  bề mặt dụng cụ, sàn nhà và qua bàn tay chúng xâm nhập lên mắt, mũi, miệng. Người ta có thể nuốt hoặc hít phải những phần tử có chứa vi rút này. Vi rút cúm có thể sống vài giờ trên bề mặt dụng cụ, sàn nhà, bàn tay sau nhiều giờ và lâu hơn ở trong không khí ẩm, lạnh, không được lưu thông, ví dụ như môi trường trong phòng điều hòa.

Khi xâm nhập vào cơ thể vi rút sẽ cư trú tại vùng hầu họng, nhân lên, lan vào trong niêm mạc phế quản và xuống phổi. Khi cơ địa người bị nhiễm giảm sức đề kháng thì sẽ phát bệnh. Theo tổng kết thì trong tổng số  những ca  tử vong do cúm A(H1N1) cho đến nay đều rơi vào những người bệnh có cơ địa yếu như: Người cao tuổi, trẻ nhỏ, phụ nữ có thai, người mắc bệnh mạn tính ở đường hô hấp và các bệnh mạn tính khác như: Tiểu đường, tim mach, huyết áp…Trên cơ địa những bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch như HIV mà đồng nhiễm cúm A(H1N1) thì cực kỳ nguy hiểm, vì vậy những người những có cơ địa bị suy giảm miễn dịch, cần chú ý các biện pháp phòng  bị lây nhiễm cúm, khi có nghi nghờ bị nhiễm cúm A(H1N1), cần đi khám phát hiện sớm, điều trị kịp thời, hạn chế tối đa các biến chứng nặng.

Nếu người khỏe mạnh có sức đề kháng tốt vi rút sẽ nhanh chóng bị tiêu diệt và có thể tự khỏi, những người này chỉ cần theo dõi tại nhà không cần phải đến bệnh viện.

Ng­ười bị nhiễm vi rút cúm A(H1N1) có khả năng truyền cho những ng­ười xung quanh trong thời gian 1 ngày trư­ớc tới 7 ngày sau, kể từ khi có triệu chứng bệnh.

Bệnh lây lan nhanh khi có sự tiếp xúc trực tiếp với ng­ười bệnh, đặc biệt ở nơi tập trung đông ng­ười như ­: Bến tàu, bến xe, tr­ường học, nhà trẻ…

Để chẩn đoán ca bệnh cúm A(H1N1) cần dựa vào các yếu tố và triệu chứng sau:

1. Yếu tố dịch tễ:

–         Sống hoặc đến từ vùng có dịch cúm A(H1N1).

–  Tiếp xúc gần với ng­ời bệnh, nguồn bệnh.

2. Triệu chứng lâm sàng: Bệnh diễn biến cấp tính và có một số biểu hiện sau:

–         Sốt (thư­ờng trên 38oC).

–         Các triệu chứng về hô hấp:

+ Viêm long đư­ờng hô hấp.

+ Đau họng.

+ Ho khan hoặc có đờm.

– Các triệu chứng khác: Đau đầu, đau cơ, mệt mỏi, nôn, tiêu chảy.

– Nhiều trư­ờng hợp có biểu hiện viêm phổi nặng, thậm chí có suy hô hấp cấp và suy đa phủ tạng.

3. Cận lâm sàngXétnghiệm:  Dương tính với Virus cúm A(H1N1)

Phòng bệnh:

Vi rút cúm A(H1N1) có đặc điểm là sức đề kháng của chúng rất yếu, rất dễ bị bất hoạt, và nhanh chóng bị tiêu diệt bởi bức xạ mặt trời và tia cực tím, bị tiêu diệt ở nhiệt độ 700c và các chất tẩy rửa thông thường. Vi rút cúm A(H1N1) không có gen độc lực và gen làm tăng tính lây truyền,  chúng rất ổn định về bộ gen và cấu trúc gen giống nhau ở trên toàn cầu nên sẽ nhanh chóng tìm được vắc xin phòng chống loại vi rút cúm này. Trước tình hình dịch bệnh hiện nay, Chúng ta không được lơ là chủ quan, nhưng cũng  không nên hoang mang lo lắng mà hãy bình tĩnh, theo dõi trên các phương tiện thông tin đại chúng về tình hình dịch bệnh và các biện pháp ứng phó với dịch.

Sau đây là những khuyến cáo về phòng tránh cúm A(H1N1) của Bộ Y tế

1/ Khi có biểu hiện Sốt cao, ho, đau họng, mệt mỏi mọi ng­ười cần đến cơ sở y tế gần nhất để đ­ược t­ư vấn, hư­ớng dẫn.

2/ Tránh tiếp xúc với càng nhiều ng­ười càng tốt, nếu buộc phải tiếp xúc thì nên đeo khẩu trang để tự bảo vệ cá nhân.

3/  Khi ho, hắt hơi thì phải che miệng bằng khăn giấy, không khạc nhổ bừa bãi.

4/ Th­ường xuyên rửa tay bằng xà phòng, nhất là sau khi ho, hắt hơi;

5/ Nhỏ mũi, xúc họng hàng ngày bằng dung dịch sát khuẩn.

6/ Tuyệt đối không tự ý mua thuốc và sử dụng Tamiflu khi chư­a có hướng dẫn của thầy thuốc.

7/ Hạn chế sử dụng điều hòa, th­ường xuyên làm vệ sinh và làm thông thoáng nơi ở, nơi làm việc.

8/ Tăng c­ường dinh dưỡng, sử dụng thức ăn dễ tiêu, uống nhiều n­ước.

9/ Chỉ đến nơi làm việc và ra nơi công cộng sau khi hết sốt 3 ngày và không còn dấu hiệu của bệnh.

 Bs CKI Vũ Thị Phượng – Trung tâm TTGDSK

Bài viết Bệnh cúm A (H1N1) đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Sức Khỏe.

]]>
https://yhocthuongthuc.net/content/3156-Benh-cum-A-H1N1-.aspx/feed 0 600
Tác hại của thuốc lá với thanh, thiếu niên https://yhocthuongthuc.net/content/2980-Tac-hai-cua-thuoc-la-voi-thanh-thieu-nien--.aspx?utm_source=rss&utm_medium=rss&utm_campaign=tac-hai-cua-thuoc-la-voi-thanh-thieu-nien https://yhocthuongthuc.net/content/2980-Tac-hai-cua-thuoc-la-voi-thanh-thieu-nien--.aspx#respond Mon, 30 Nov 2015 07:40:24 +0000 https://suckhoequangninh.org.vn/?p=586 Thanh, thiếu niên là lứa tuổi đang phát triển, đang định hướng và trưởng thành về tâm sinh lý và nhân cách. Giai đoàn này các em chịu tác động và ảnh hưởng không nhỏ của gia đình, môi trường sống và giáo dục của nhà trường, xã hội nên hay học đòi như hút thuốc lá theo các bạn mà không biết rằng hút thì rất dễ nhưng để bỏ thuốc thì là cả một cuộc chiến gian nan. Hơn nữa các em cũng không phải là tuổi để nghĩ và hiểu về những hậu quả của khói thuốc

Bài viết Tác hại của thuốc lá với thanh, thiếu niên đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Sức Khỏe.

]]>
Thanh, thiếu niên là lứa tuổi đang phát triển, đang định hướng và trưởng thành về tâm sinh lý và nhân cách. Giai đoàn này các em chịu tác động và ảnh hưởng không nhỏ của gia đình, môi trường sống và giáo dục của nhà trường, xã hội nên hay học đòi như hút thuốc lá theo các bạn mà không biết rằng hút thì rất dễ nhưng để bỏ thuốc thì là cả một cuộc chiến gian nan. Hơn nữa các em cũng không phải là tuổi để nghĩ và hiểu về những hậu quả của khói thuốc lá gây ra.

Ai cũng biết hút thuốc lá có hại cho sức khoẻ. Khói thuốc lá chứa hơn 7.000 chất hóa học, trong đó có 70 chất gây ung thư, dẫn đến nhiều căn bệnh nguy hiểm khác nhau như ung thư phổi, bệnh tim mạch, bệnh phổi tắc nghẽn, vô sinh…. Tuy nhiên, tỷ lệ người hút thuốc lá tai Việt Nam vẫn rất cao như: Tỷ lệ nam trên 15 tuổi hút thuốc có 15,3 triệu người chiếm 47,4%, như vậy trung bình cứ 2 nam giới có 1 người hút thuốc, 38 triệu người không hút thuốc bị tiếp xúc thụ động với khói thuốc. Phần lớn người hút thuốc bắt đầu hút khi còn rất trẻ: Theo điều tra năm 2010, 56% người hút thuốc ở bắt đầu hút trước tuổi 20 đa số là do sự hiểu biết cụ thể về tác hại của thuốc lá còn hạn chế, kiến thức của mọi người dân trong đó có các em thanh, thiếu niên chưa được trang bị một cách đầy đủ. Thuốc lá đang xâm chiếm và từng bước làm nguy hại nghiêm trọng đến sức khỏe cho chính người sử dụng nó và cho ngay cả những người xung quanh hàng ngày hít phải khói thuốc lá. Thuốc lá gây ô nhiễm môi trường sống, làm giảm chất lượng học tập và hiệu quả làm việc, bào mòn sự thông minh, sáng tạo của thế hệ trẻ và tất nhiên sẽ làm mất dần chất xám của dân tộc Việt Nam, lứa tuổi mà hiện nay chúng ta đang rất cần xây dựng, đào tạo và bồi dưỡng.

Trước thực trạng đó, công tác phòng, chống hút thuốc lá là một vấn đề bức thiết, hơn ai hết đối tượng đáng được quan tâm nhất là các em thanh, thiếu niên để góp phần đẩy lùi tình trạng này không chỉ riêng trách nhiệm của nhà trường mà nó cần phải có sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội. Cần phải có chế tài nghiêm khắc với việc bán thuốc lá cho người chưa đủ 18 tuổi  và cần có những việc làm mạnh tay hơn của các sở, ban, ngành chức năng trong việc phòng, chống hút thuốc lá. Cần tích cực tuyên truyền, giáo dục về tác hại thuốc lá tới học sinh, sinh viên thông qua các diễn đàn hoặc sân khấu hóa, đồng thời tổ chức các hoạt động thu hút học sinh, sinh viên tham gia tuyên truyền phòng, chống tác hại thuốc lá, để mỗi học sinh, sinh viên là một tuyên truyền viên về phòng, chống tác hại của thuốc lá đến bạn bè, người thân của mình. Phụ huynh, thầy giáo, cô giáo, những người xung quanh luôn gương mẫu chấp hành nghiêm những quy định về không hút thuốc lá để làm gương cho các em.

Các bậc phụ huynh, thầy cô giáo và đặc biệt là các bạn thanh, thiếu niên chúng ta hãy cùng nhau ra sức thực hiện lộ trình tiến tới xây dựng một môi trường Xanh – Sạch – Đẹp – Không khói thuốc lá và cương quyết “Nóikhông với thuốc lá”.

Phạm Mạnh Hùng  – Trung tâm Truyền thông GDSK

Bài viết Tác hại của thuốc lá với thanh, thiếu niên đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Sức Khỏe.

]]>
https://yhocthuongthuc.net/content/2980-Tac-hai-cua-thuoc-la-voi-thanh-thieu-nien--.aspx/feed 0 586
Thuốc kết hợp trong điều trị tiêu chảy cấp https://yhocthuongthuc.net/content/718-Thuoc-ket-hop-trong-dieu-tri-tieu-chay-cap-.aspx?utm_source=rss&utm_medium=rss&utm_campaign=thuoc-ket-hop-trong-dieu-tri-tieu-chay-cap-2 https://yhocthuongthuc.net/content/718-Thuoc-ket-hop-trong-dieu-tri-tieu-chay-cap-.aspx#respond Thu, 20 Sep 2012 08:06:29 +0000 https://suckhoequangninh.org.vn/?p=603 Tiêu chảy là tình trạng đi tiêu chảy nhiều lần, ít nhất > 3 lần trong ngày, với lượng phân và nước nhiều. Trẻ em khi bị tiêu chảy sẽ nặng hơn, nhất là tiêu chảy cấp dễ dẫn đến mất nước và chất điện giải nhanh gây nguy hiểm tới tính mạng. Tiêu chảy là tình trạng đi tiêu chảy nhiều lần, ít nhất > 3 lần trong ngày, với lượng phân và nước nhiều. Trẻ em khi bị tiêu chảy sẽ nặng hơn, nhất là tiêu chảy cấp (số lần đi tiêu chảy > 10 lần trong ngày) dễ

Bài viết Thuốc kết hợp trong điều trị tiêu chảy cấp đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Sức Khỏe.

]]>
Tiêu chảy là tình trạng đi tiêu chảy nhiều lần, ít nhất > 3 lần trong ngày, với lượng phân và nước nhiều. Trẻ em khi bị tiêu chảy sẽ nặng hơn, nhất là tiêu chảy cấp dễ dẫn đến mất nước và chất điện giải nhanh gây nguy hiểm tới tính mạng.

Tiêu chảy là tình trạng đi tiêu chảy nhiều lần, ít nhất > 3 lần trong ngày, với lượng phân và nước nhiều. Trẻ em khi bị tiêu chảy sẽ nặng hơn, nhất là tiêu chảy cấp (số lần đi tiêu chảy > 10 lần trong ngày) dễ dẫn đến mất nước và chất điện giải nhanh gây nguy hiểm tới tính mạng. Vì vậy, cần phải được điều trị nhanh chóng, kịp thời.

Các thuốc điều trị

Ở các nước đang phát triển trong đó có nước ta. Ước tính, số trẻ mắc tiêu chảy nhập viện điều trị là trung bình 25 – 30%. Tiêu chảy là một trong những bệnh nghiêm trọng thứ hai ở trẻ dưới 5 tuổi, sau nhiễm khuẩn đường hô hấp cấp. Theo số liệu, mỗi năm có khoảng 2 triệu trẻ em dưới 5 tuổi trên toàn thế giới chết do tiêu chảy, trong số đó có 80% là trẻ dưới 2 tuổi.

Nguyên nhân gây tiêu chảy có nhiều: có thể do vi khuẩn, vi rút: Rotavirus, ký sinh trùng, dị ứng, ngộ độc thức ăn. Các thuốc điều trị chính là điều trị triệu chứng, làm giảm sự co thắt ở ruột, sửa chữa sự rối loạn tiết dịch, bổ sung nước và chất điện giả v.v…;Trên cơ sở đó, chúng ta có thể dùng nhóm thuốc là các chất hấp phụ: smecta, smectic, acticarbine, carbotrim… có cấu trúc xốp và có độ nhớt cao, tương tác với glycoprotein của dịch nhầy, làm tăng sức chịu đựng của lớp gen dính trên niêm mạc ruột khi bị các vi khuẩn tấn công, do đó bảo vệ được niêm mạc ruột. Cũng có thể dùng nhóm thuốc có tác dụng ổn định hệ vi khuẩn ở ruột: antibio, bioflor, enterogermina, lacteol…,với mục đích là chống loạn khuẩn, kích thích tăng sản xuất IgA, phục hồi khả năng hấp thu của niêm mạc ruột, lập lại sự cân bằng của hệ tạp khuẩn. Tuy nhiên, đứng đầu trong các thuốc điều trị tiêu chảy phải kể đến là oresol và một thuốc mới có nhiều triển vọng: racecadotril.

Oresol lựa chọn số một trong điều trị tiêu chảy cấp

Mắc bệnh và tử vong do tiêu chảy chủ yếu là do mất nước và điện giải. Trẻ em rất dễ mất nước, nếu giảm sút trên 10% thể trọng do tiêu chảy có thể tử vong sau vài giờ. Do vậy, khi trẻ bị tiêu chảy nhất là tiêu chảy cấp, đặc biệt đối với trẻ nhỏ vấn đề quan trọng là phải bù nước và điện giải đã mất do tiêu chảy. Cách đơn giản nhất mà Tổ chức y tế Thế giới (WHO) đã khuyến cáo là dùng oresol bằng đường uống.

Từ khi có oresol đưa vào điều trị tiêu chảy đã cứu được rất nhiều trẻ em thoát khỏi tử vong. Năm 2008, WHO và UNICEF lại đưa ra khuyến cáo liệu trình mới điều trị tiêu chảy ở trẻ em dựa trên nền của liệu trình cũ có cải tiến và thu được kết quả cao hơn. Đó là dùng oresol có tỷ trọng thấp so với oresol cũ và một vài thuốc khác.

Dung dịch oresol mới có nồng độ NaCl 2,6g/lít so với cũ là 3,5g/lít, glucose 13,5g/lít so với cũ 20g/lít, một số chất khác không thay đổi. Như vậy là dung dịch oresol mới có tỷ trọng thấp hơn, có tổng độ thẩm thấu tốt hơn oresol cũ. Các nghiên cứu cho thấy nhóm trẻ dùng oresol mới làm giảm tới 33% số trẻ phải truyền dịch, làm giảm 20% số lượng phân bài tiết và làm giảm 30% số trẻ bị nôn so với nhóm trẻ dùng dung dịch oresol cũ. Oresol mới được đóng gói trong giấy nhôm hàn kín, mỗi gói dùng pha trong 1lít nước đun sôi để nguội, không được pha đặc hay loãng hơn. Dung dịch pha xong chỉ nên uống trong ngày (24 giờ), thừa phải đổ đi và pha gói mới.

Thuốc điều trị tiêu chảy cấp mới Racecadotril dùng kết hợp với Oresol

Tuy oresol có tính an toàn cao và dung nạp tốt, nhưng chỉ bù nước và chất điện giải một cách thụ động mà cơ thể đã bị mất chứ không tác động chủ động vào cơ chế sinh bệnh, chính là tình trạng tăng tiết quá mức ở ruột. Do vậy, dung dịch bù nước và điện giải bằng đường uống không ngăn được lượng dịch sẽ mất, không làm giảm lượng phân bài xuất và rút ngắn thời gian tiêu chảy. Trên cơ sở đó, những năm gần đây, các nhà nghiên cứu đã tìm ra thuốc racecadotril: một tên gọi chung quốc tế. Cơ chế tác dụng của racecadotril trong chống tiêu chảy là chống tăng tiết hay còn gọi kháng tiết.            

Racecadotril trên thực nghiệm và thực tế điều trị đều chứng minh được hiệu quả chống tiêu chảy nhanh và rất an toàn, đặc biệt đối với trẻ em. Dùng kết hợp với ORS (Oresol) sẽ giảm nhanh triệu chứng tiêu chảy và rút ngắn thời gian điều trị, do tác động chống tăng tiết racecadotril làm giảm lượng phân bài xuất và rút ngắn thời gian tiêu chảy. Nó đặc biệt tốt cho trẻ em bởi đặc tính của thuốc không đi qua hàng rào máu não: không ảnh hưởng hệ thần kinh trung ương, không ức chế hô hấp, không làm giảm nhu động ruột: không gây trướng bụng chán ăn, không gây tăng sinh vi khuẩn ruột quá mức và đặc biệt khá an toàn nếu dùng quá liều. Do vậy, racecadotril đã được nhiều hiệp hội nhi khoa thế giới khuyến cáo sử dụng rộng rãi từ năm 2003 và thực tế cho tới nay đã chứng tỏ tính hiệu quả trong công tác điều trị.

Như vậy, cách điều trị theo khuyến cáo mới, thực sự là một nghiên cứu kết hợp thú vị và khá hoàn chỉnh, bởi oresol thì bù lại lượng nước và điện giải bị mất, bên cạnh đó racecadotril thì ức chế sự tăng tiết nước và điện giải, làm giảm đi lượng nước và điện giải lẽ ra sẽ tiếp tục bị mất, do đó làm giảm lượng phân bài xuất, rút ngắn thời gian bị tiêu chảy.                                                           

Bs Phạm Tiến Dũng – Tổng hợp

Bài viết Thuốc kết hợp trong điều trị tiêu chảy cấp đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Sức Khỏe.

]]>
https://yhocthuongthuc.net/content/718-Thuoc-ket-hop-trong-dieu-tri-tieu-chay-cap-.aspx/feed 0 603