Bệnh gút bẩm sinh và những điều cần biết

Hội chứng Lesch – Nyhan (LNS) là bệnh gút bẩm sinh và là một bệnh di truyền hiếm gặp gây nên bởi thiếu hụt men hypoxanthineguanine phosphoribosyltransferase (HGPT), do đột biến gen HPRT. LNS gặp với tỷ lệ 1/380.0000 trẻ mới sinh. LNS là một bệnh liên quan đến gen lặn nằm trên nhiễm sắc thể X. Đột biến gen do mẹ mang và chuyển cho con trai, mặc dù 1/3 các trường hợp xuất hiện mới, do đột biến mới và không có tiền sử gia đình. LNS xuất hiện ngay từ khi mới đẻ ở bé trai. Bệnh có các biểu hiện về toàn thân, thần kinh, thận và khớp.

Biểu hiện điển hình của bệnh

LNS đặc trưng bởi ba điểm nổi bật: tăng sản xuất acid uric (tăng acid uric máu), rối loạn thần kinh, bất thường nhận thức và hành vi, bao gồm tự cắt xẻo, một số bị thiếu máu hồng cầu to. Hầu như tất cả bệnh nhân đều là nam giới, bị chậm phát triển và dậy thì và hầu hết có tinh hoàn nhỏ hay thoái hoá tinh hoàn. Tiên lượng xấu. Ít bệnh nhân sống trên 40 tuổi.

1. Tăng sản xuất acid uric

Một triệu chứng đầu tiên của bệnh là sự hiện diện của các tinh thể acid uric giống như cát trong tã của trẻ mắc bệnh. Có thể có sỏi urat trong thận, niệu quản hay bàng quang. Các lắng đọng tinh thể trong khớp có thể dẫn đến viêm khớp, làm khớp sưng nóng và đau.

2. Tổn thương thần kinh

Biểu hiện thường gặp nhất là giảm trương lực cơ. Và sự chậm lớn, trở nên rõ ràng sau 3-6 tháng sau khi sinh. Bệnh nhân chậm ngồi, hầu hết không thể bò hay đi lại được, không biết nói. Bệnh nhân hay kích thích. Từ 6-18 tháng, các tổn thương ngoại tháp gây nên co cơ tự phát, đau cột sống, nhăn mặt, quằn quại tự phát, các động tác lặp đi lặp lại của chân và tay, tăng phản xạ. Các triệu chứng này giống như triệu chứng của bại não, khiến cho hầu hết bệnh nhân không bao giờ đi lại được và suốt đời ngồi trên ghế lăn. Sau giai đoạn tiến triển ban đầu, kéo dài đến 3-6 năm, các bất thường vận động trở nên ổn định. Không có các rối loạn cảm giác. Nguyên nhân trực tiếp của bất thường thần kinh còn chưa rõ. Các nghiên cứu sinh hoá thần kinh và hình ảnh thần kinh cho thấy rõ các bất thường chức năng neuron dopamin trong các hạch nền sọ, gây nên các dấu hiệu thần kinh ngoại tháp và bất thường hành vi.

3. Hành vi tự hủy hoại bản thân

Bệnh nhân rối loạn nhận thức, tâm thần và hành vi xuất hiện giữa năm thứ hai và thứ ba. Đặc điểm nổi bật của LNS là hành vi tự hủy hoại bản thân, bắt đầu từ năm thứ hai của cuộc đời. Tự gây tổn thương bắt đầu bằng cắn môi và lưỡi, khi bệnh tiến triển, tự cắn ngón tay và đập đầu, tăng lên khi bị sang chấn. Tự cắt xẻo xuất hiện ở 85% bệnh nhân nam. Bệnh nhân từ chối điều trị, lạnh lùng và nổi xung. Hành vi có thể xảy ra bao gồm nôn, khạc nhổ, chửi mắng thường xuất hiện vào năm đầu hay thiếu niên.

Khi bệnh nhân có đầy đủ 3 triệu chứng điển hình thì chẩn đoán dễ dàng. Khi chưa xuất hiện đầy đủ các triệu chứng thì chẩn đoán khó hơn, dựa vào chậm lớn và tăng acid uric máu hay chậm lớn kết hợp với sỏi urat hay hành vi tự làm tổn thương. Cắn ngón tay và lưỡi là triệu chứng điển hình của LNS. Đặc biệt cần nghĩ đến LNS khi bệnh nhân có hành vi tự gây tổn thương kết hợp với tăng acid uric máu và rối loạn thần kinh. Hoạt động của men HGPT trong tế bào của bất kỳ mô nào (ví dụ máu, nguyên bào sợi nuôi cấy, nguyên bào lympho…) ít hơn 1,5% bình thường khẳng định chẩn đoán hội chứng Lesch – Nyhan. Các nghiên cứu di truyền phân tử về đột biến gen HPRT có thể khẳng định chẩn đoán, cũng như chẩn đoán người phụ nữ mang gen bệnh cũng như thành viên gia đình phía mẹ. Sử dụng các kỹ thuật di truyền như khuếch đại gen RT-PCR, phân tích chuỗi cDNA và DNA của bộ gen. Các xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh như CT hay MRI sọ não không phát hiện gì đặc biệt.

Điều trị như thế nào?

Điều trị các triệu chứng do tăng acid uric đáp ứng tốt với allopurinol. Còn các rối loạn tâm lý và thói quen tự cắt xẻo không đáp ứng với điều trị. Tuy nhiên có nhiều bệnh nhân sống tới tuổi trưởng thành. Có thể dùng allopurinol để điều trị gút, cần dùng suốt đời. Cần thường xuyên uống nhiều nước. Dùng kỹ thuật tán sỏi bằng sóng xung kích hay laser để điều trị sỏi thận. Để điều trị triệu chứng thần kinh có thể dùng carbidopa, levodopa, diazepam, phenobarbital hay haloperidol.  Chưa có thuốc điều trị hội chứng ngoại tháp, tuy nhiên để giảm co thắt cơ có thể dùng baclofen hay benzodiazepines (diazepam, tizanidine). 60% trẻ bị bệnh được nhổ răng để tránh bị cắn lưỡi hay ngón tay. Có thể sử dụng kỹ thuật kích thích não sâu, giống như để điều trị bệnh Parkinson để làm giảm co thắt cơ và tự gây tổn thương. Một số thuốc như gabapentin và carbamazepine có thể làm giảm các vấn đề về hành vi.

Tóm lại, gút bẩm sinh là bệnh nặng, tử vong thường do suy thận, biến chứng của yếu cơ, xảy ra ở thập kỷ đầu tiên hay thứ hai của cuộc đời. Một số bệnh nhân  bị nuốt nghẹn tăng dần và tử vong do suy hô hấp và viêm phổi. Trường hợp nhẹ thì có tiên lượng tốt hơn.

Related Posts

No Responses

Add Comment