Bệnh bạch cầu là sự gia tăng bất thường về số lượng các tế bào máu trắng. Các tế bào máu trắng làm ảnh hướng tới hoạt động của tế bào khác như hồng cầu và tiểu cầu. Các tế bào máu trắng này chưa trưởng thành và hoạt động không đúng.
Bệnh bạch cầu thường xuất hiện ở trẻ em nhưng ngày càng nhiều người lớn mắc bệnh. Nó phổ biến ở nam giới hơn phụ nữ . Điều trị bệnh tốn kém và có khả năng tử vong cao.
Trẻ em có nguy cơ mắc bệnh bạch cầu cao hơn
Máu có 3 loại tế bào: Bạch cầu làm nhiệm vụ chống nhiễm trùng, tế bào hồng cầu mang oxy và tiểu cầu giúp đông máu. Mỗi ngày hàng trăm tỷ tế bào máu mới được sản xuất trong tuỷ xương – phần lớn là hông cầu. Ở những người mắc bệnh bạch cầu, các tế bào bạch cầu sản xuất nhiều hơn cần thiết. Nhiều tế bào không trưởng thành bình thường và có xu hướng sống lâu hơn tuổi thọ trung bình của tế bào bạch cầu bình thường.
Mặc dù số lượng tăng lên nhiều, nhưng những tế bào bạch cầu này không giúp cơ thể chống lại nhiễm trùng bình thương. Chúng tích tụ và can thiệp vào một số chức năng quan trọng của cơ thể bào gồm việc sản xuất ra các tế bào máu khoẻ mạnh. Cuối cùng, cơ thể không cung cấp đủ tế bào hồng cầu để cung cấp oxy, tiểu cầu để làm đông máu và đủ các tế bào bạch cầu bình thường làm đông máu. Người mắc bệnh bạch cầu thường thiếu máu làm tăng nguy cơ bầm tím, chảy máu và nhiễm trùng.
Bệnh bạch cầu được phân loại thành cấp tính và mãn tính. Các tế bào bạch cầu cấp tính lan rộng trước khi phát triển vượt ra ngoài giai đoạn chưa trưởng thành. Tiến triển của bệnh bạch cầu mãn tính chậm hơn với các tế bào bạch cầu phát triển để trưởng thành đầy đủ. Bạch bạch cầu cũng được phân loại theo các loại tế bào bạch cầu có liên quan, phổ biến nhất là dòng tuỷ hoặc bạch huyết. Dưới kính hiển vi hai loại chính của tế bào máu trắng có thể dễ dàng phân biệt các tế bào dòng tuỷ chứa các hạt nhỏ, các tế bào bạch huyết thường không có.
Bệnh bạch cầu được phân chia thành 2 loại là cấp tính và mãn tính
Nguyên nhân của bệnh bạch cầu
Không ai biết chính xác nguyên nhân gây ra bệnh bạch cầu. Một số bất thường ở nhiễm sắc thể có thể liên quan tới bệnh nhưng không phải nguyên nhân gây ra bệnh.
Rối loạn di truyền có liên quan tới bệnh bạch cầu dòng tuỷ cấp tính bao gồm hội chứng Down, hội chứng bloom, Fanconi thiếu máu hoặc rối loạn suy giảm miễn dịch như hội chứng Wiskott0 Aldrich. Ngoài ra, một virus hiếm gặp cùng họ với virus gây suy giảm miễn dịch ở người HIV có liên quan tơi bệnh. Đây là virus HTLV-1.
Yếu tố môi trường dường như cũng ảnh hưởng tới nguy cơ mắc bệnh bạch cầu. Hút thuốc lá dễ mắc bệnh. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng tiếp xúc thường xuyên với bức xạ, hoá chất trong môi trường như sản phẩm có chứa benzen, dầu mỏ, … có liên quan tới bệnh bạch cầu.
Hút thuốc làm tăng nguy cơ mắc bệnh
Bệnh bạch cầu cũng là một biến chứng hiếm gặp của hoá trị và xạ trị được sử dụng để điều trị ung thư khác. Nguy cơ bệnh bạch cầu phụ thuộc vào loại thuốc hoá trị sử dụng. Nguy cơ phát triển bệnh bạch cầu cao hơn ở những người đã sử dụng cả hai liệu pháp trên.
Bức xạ ion hoá như tiếp xúc với vụ nổ hạt nhân, uranium và tiếp xúc với bụi uranium và radon có liên quan tới sự phát triển của bệnh bạch cầu.
Yếu tố di truyền cũng đóng một vai trò quan trọng. Với những cặp sinh đôi cùng trứng, nếu một trong hai mắc bệnh bạch cầu, người còn lại có 20% nguy cơ cùng mắc bệnh.
D.P